Yahoo Answers is shutting down on May 4th, 2021 (Eastern Time) and beginning April 20th, 2021 (Eastern Time) the Yahoo Answers website will be in read-only mode. There will be no changes to other Yahoo properties or services, or your Yahoo account. You can find more information about the Yahoo Answers shutdown and how to download your data on this help page.

việc sáng tác chữ quốc ngữ, chữ quốc ngữ là gì, ai đặt ra chữ quốc ngữ?

4 Answers

Rating
  • 1 decade ago
    Favorite Answer

    chữ quốc ngữ theo ý hiểu của bạn là gì? Mình hiểu thì người đặt ra nó là người sáng lập lên đất nước hoặc quốc gia ấy

  • 1 decade ago

    chữ quốc ngữ là là một thứ chữ dùng tự mẫu(chữ cái)La mã để phiên âm tiếng an nam.Quốc ngữ nghĩa đen là tếng nói của nước ;vậy cái từ ngữ ấy dùng để gọi thứ chữ mới đặt ra đây , kể không đúng,vì đó là một thứ chữ chứ không phải một thứ Tiếng ;nhưng từ ngữ ấy đã quen dùng rồi không thể đổi được nữa.

    Ai đặt chữ Quốc ngữ? -Các giáo sĩ người Âu , khi đến nước ta truyền giáo vào thế kỉ 17 , thấy ở xứ ta toàn chữ nôm, là thứ chữ dùng để viết tiếng An nam nhưng chua có chuẩn đích mà học lại nhiều công phu ,nên mới mượn các tự mẫu La mã đặt ra chữ quốc ngữ để tiện việc dịch sách, soạn sách cho con chiên xem,

    Việc sáng tác chữ quốc ngữ là một công cuộc chung của nhiều người , trong đó có có cả giáo sĩ người tây ban nha bồ đào nha , Pháp-lan -tây, Nhưng người có công ấy là cố Ale xan dre de Rho de s vì chính ông là người đấu tiên đem in nhửng sách bằng chữ quốc ngữ,thứ nhất là một cuốn tự điển, khiến cho người sau có tài liệu học mà kê cứu

    Cuốn tự điển của Cố Ale cuốn ấy chính nhan là Dictionarium annmitticum ,lu si tanum et latinum( nghiã là tự điển an nam, bồ đào nha và la tinh )in ở la mã năm 1651; nhân sự in cuốn ấy, nhà in của giáo hội thành la mã đúc chữ quốc ngữ lần Đầu tiên,

    Các nguyên thư để xem cuốn ấy là

    a)Tự vựng An nam bồ đào nha của cố Gaspar de Amaral người Bồ

    b)Tự vựng Bồ đào nha An nam của cố Antoine de Barbo-sa , người Bồ,hai cuốn đều viết bằng tay nay bị thất truyền

    cuốn ấy chia 3 phần;

    a( Tự điển

    b( mục lục tra bằng tiếng la tinh

    c) Phần giảng qua mẹo tiếng an nam

    Theo cuốn tự điển ấy thì âm vận tiếng ta và cách viết chữ quốc ngữ hồi ấy có khác ngày nay ít nhiều

    a)Về âm vận tiếng ta, Ta nhận thấy;

    1)- có vài âm khác nhau;

    phụ âm (b) ngày xưa đọc là( v), ví dụ bua= vua;bó ngựa= vó ngựa

    phụ âm d ngày xưa đọc là nh, ví dụ dè dẹ= nhè nhẹ

    2)- có vài phụ âm mất hẳn

    gi. thí dụ; dối blá= dối giá ,blả ơn=giả ơn

    L, thí dụ ;tàu blúc blắc =tàu lúc lắc

    tr, thí dụ blái núi= trái núi

    blổ tài= trổ tài

    phụ âm ml hoặc mnh nay đổi thành l hoặc nh. thí dụ;chém một blát= chém một lát (nhát) mlẽ, mnhẽ = lẽ, nhẽ

    phụ âm tl đổi thành tr, thí dụ; an tlộm= ăn trộm, tlăm con tlâu= trăm con trâu

    b)về cách viết chữ quốc ngữ ta nhận thấy khác bây giờ

    a õ(xưa) =ong (nay)thí dụ sa õ =song; chà õ=chòng

    o ũ(xưa) =ông(nay) V.V

    Cuốn tự điển của cố Alexandre de Rhodes không những là một bằng chứng để ta khảo cứu âm vận tiếng ta và hình thể chữ quốc ngữ tiền bán thế kỉ 17 mà lại là một cuốn sách gốc để các nhà ngữ học về sau kê cứu mà làm các tự điển khác về tiếng ta.

    Kết luận;-các giáo sỉ người âu đặt ra chữ quốc ngữ chủ ý là có được thứ chữ viết tiếng ta cho tiện để dùng cho việc truyền giáo dễ dàng, Không ngờ vì tình thế lịch sử xui nên, thứ chữ ấy nay thành văn tự phổ thông của cả dân tộc VN ta

    Các bạn đọc một đoạn văn cũ

    Phép giảng tám ngày, ngày thứ nhít(nhứt)

    Ta cầu cũ(cùng) đức chúa blời( trời) giúp sức cho ta biết tỏ tưầng(tường)đạo chúa là nhuầng( nhường )nào, vì bậy (vậy)ta phải ăn ở thế này chẳng có ai só ũ(sống) lâu vì chưng kẻ đến bảy tám mưoi tuổi chẳng có nhềo (nhiều) vì bậy(vậy )ta nên tìm đàng nào cho được só ũ lâu (sống), là kiém(kiếm) đàng só ũ(sống) bậy(vậy);thật là việc người quên (quân) tử khác phép thế gian này,dù mà làm cho người được phú quý são(song)lechảng làm được cho ta ngày sau khỏi làm tiẻu nhin(tiểu nhân)khốn nạn.vì (bậy )ta chẳng phải haọc(học đạo cho ta được phú quý ở thế gian này.Vì chưng ích đạo thánh đức chúa blời về đời sau.Người thế sự đời này lành dữ thì hay, mlẽ(lẽ) qua đời này cho khi chết được bui bẻ( vui vẻ)đời sau , cho biết đươc đàng ếy(ấy) trước thì phải hay loài người ta có hai sự:mọt là xác hai là linh hồn,xác bời cha mẹ mà có xưâng(xương)có máu có thịt,hay nát hay mòn,são(song) le linh hồn là tính thiêng liêng chảng hay mòn ,chảng hay nát, chảng hay chết, chảng bởi cha mẹ sinh ra,thật bởi bề blên(trên) mà có.linh hồn như chúa nhà ,xác như tôi tá hay là đầi(đầy) tớ ,

    São( song) ta xét ta lo tlước(trước)cho đầi(đầy) tớ hay là cho chúa nhà ? sau lo cho đầi (đầytớ mới phải , cày ruộng buôn bán,những việc thể ếy(ấy)là việc về xác.. Có kẻ đi cấy đi cày được lúa nhềo(nhiều)tlã õ(trong)kho,đến khi qua đời này một nhám lúa đam(đem đi cũ(củng)chảng được.Có kẻ đi hầu hạ chầu chực chúa bua(vua) mà được làm quan. đến khi linh hồn ra khỏi xác, nhửng sư ếy(ấy thì phải bỏ,, đem về chảng được đi gì sốt.Có blời (lời) rằng;khi sinh ra chảng có đam(đem) một đó ũ( đồng,), mà lại chết cũ(cũng)chảng có cầm một đó ũ( đồng )mà đìVi chưng người ta ở thế gian nay chảng ai khỏi sự ếy(ấy),thì phải haọc(học) đạo thánh về đời sau,cho ngày sau chúng ta được só ũ(sống )lâu vô cũ(cùng)

    trích( việt nam văn học sử yếu)

  • 1 decade ago

    Alexandre de Rhodes (sinh năm 1591 tại Avignon, Pháp; mất năm 1660 tại Ispahan, Ba Tư) đã sang Việt Nam truyền đạo trong vòng sáu năm (1624 – 1630). Ông là người có công rất lớn trong việc La Mã hoá tiếng Việt (nhiều tác giả gọi là Latin hóa. Thá»±c ra mẫu tá»± chữ cái tiếng Việt hiện nay là mẫu tá»± chữ Roman chứ không phải là chữ Latin). Kế tục công trình cá»§a những người đi trước là các tu sÄ© Jesuit (dòng Tên) người Bồ Đào Nha như Francisco de Pina, Gaspar d’Amaral, Antonio Barbosa v.v... trong việc La Mã hóa tiếng Việt, Alexandre de Rhodes đã xuất bản “Bài giảng giáo lý Tám ngày” đầu tiên bằng tiếng Việt và cuốn từ điển Việt - La - Bồ đầu tiên vào năm 1651 tại Rome. Hệ thống chữ viết tiếng Việt dùng chữ cái La Mã này được chúng ta ngày nay gọi là “chữ Quốc ngữ”.

    Chữ Quốc Ngữ, viết tắt là Quốc Ngữ, là hệ thống chữ viết chính thức hiện nay cá»§a tiếng Việt. Hệ thống này được xây dá»±ng dá»±a trên chữ cái Latinh (cụ thể là trá»±c tiếp từ chữ cái Bồ Đào Nha) thêm các chữ ghép và 9 dấu phụ — 4 dấu tạo ra các âm mới, và năm dấu còn lại dành cho thể hiện thanh điệu cá»§a từ. Hai loại dấu phụ có thể được viết cùng trên một chữ cái nguyên âm.

    Bảng chữ cái tiếng Việt có 29 chữ cái, theo thứ tự:

    A Ă Â B C D Đ E Ê G H I K L M N O Ô Ơ P Q R S T U Ư V X Y

    a ă â b c d đ e ê g h i k l m n o ô ơ p q r s t u ư v x y

    Ngoài ra, có 10 chữ ghép đôi và 1 chữ ghép ba.

    CH GH GI KH NG NGH NH PH QU TH TR

    Trước đây, các chữ ghép này được coi như một chữ cái độc lập và có thể được tìm thấy trong từ điển cũ. Ngày nay chúng không được coi là chữ cái độc lập mà là chữ ghép; ví dụ trong việc xếp thứ tự, "CH" nằm giữa "CA" và "CO" trong các từ điển hiện đại.

    Các chữ cái "F", "J", "W" và "Z" không có trong bảng chữ cái tiếng Việt, nhưng có thể bắt gặp trong các từ vay mượn từ tiếng nước ngoài. "W" thỉnh thoảng được dùng trong viết tắt thay "Ư".

    Nguyên âm

    Ngoài các nguyên âm đơn, trong tiếng Việt còn có nguyên âm đôi và nguyên âm ba.

    Có mối liên hệ phức tạp giữa nguyên âm và cách phát âm của chúng. Một nguyên âm có thể biểu thị cho vài cách phát âm khác nhau, tùy theo nó nằm trong nguyên âm đơn, đôi hay ba; và nhiều khi các cách viết nguyên âm khác nhau tượng trưng cho cùng một cách phát âm.

    Ví dụ y và i có thể dùng thay cho nhau trong nhiều trường hợp. Đã có quyết định của Bộ Giáo dục Việt Nam vào năm 1984, quy định dùng i thay cho y. Quy chuẩn này không áp dụng cho các nguyên âm đôi và nguyên âm ba, cũng như ngoại trừ tên riêng; nhưng vẫn có hạn chế trong việc thực thi trong cuộc sống.

    Phụ âm

    Chữ ghép "GH" và "NGH" được dùng thay "G" và "NG" ngay trước "I", để tránh nhầm lẫn với chữ ghép "GI". Vì lý do lịch sử, chúng cũng được dùng trước "E" và "Ê".

    Đa số các phụ âm được dùng giống như trong nhiều ngôn ngữ dùng chữ cái latinh khác.

    ...

    Hệ thống chữ viết ấy, ngày nay, thường được gọi chung là chữ quốc ngữ. Trong gần hai thế kỷ, mãi cho đến lúc xuất hiện cuốn Từ điển La-Việt của Taberd năm 1838 (2), hai tác phẩm ấy vẫn là những công trình duy nhất áp dụng hệ thống chữ viết này được in. Hai cuốn sách ấy ghi rõ trên bìa tên của tác giả Alexandre de Rhodes, thuộc Hội dòng Giê-su, nhà truyền giáo Tông tòa.

    (Thành ngữ "quốc ngữ" theo nguyên tự Hán- Việt là "tiếng nói của người Việt". Thực ra, đây là một lối viết tiếng Việt khác với chữ Hán được sử dụng chính thức trong nhiều thế kỷ. Việc áp dụng một lối viết để đọc tiếng Việt khởi thuỷ là chữ Nôm; hệ thống chữ viết này lấy từ cách viết chữ Hán mà chúng ta sẽ có dịp nói đến sau này. Nhưng từ khoảng đầu thế kỷ 20, thành ngữ "quốc ngữ", về kỹ thuật nhằm để nói đến lối viết tiếng Việt theo mẫu tự La-tinh; và ngày nay mọi người đều hiểu như thế. Chữ "quốc ngữ" ấy xây dựng trên căn bản vần La- tinh được bổ túc hai kiểu mẫu âm tiêu nhằm thích ứng với tính đa dạng của các âm tố nơi tiếng Việt, và để ghi chép rõ nét các âm. Ðây là lối viết ngày nay được mọi người Việt sử dụng.) Ðến khi chữ quốc ngữ đã bắt đầu được sử dụng chính thức tại Việt Nam vào đầu thế kỷ XX (3), người ta cố truy tìm lịch sử của nó, bấy giờ tên tuổi Alexandre de Rhodes đã sớm được công nhận như là người khai sinh ra việc chuyển vần La- tinh vào tiếng Việt Nam. Rồi từ đó ông được nâng lên tận mây xanh như một ngôi sao đứng một mình, soi sáng cho đêm tối của quá khứ xa xưa, của những thời kỳ truyền giáo tiên khởi, trước khi các vị truyền giáo Paris đến, trong đó Taberd và các đấng kế vị là những đại diện có tên tuổi. Chính quyền thực dân và Giáo Hội đều đã ca ngợi thiên tài truyền giáo và ngữ học có một không hai của vị tu sĩ Dòng Tên, tán dương những lợi ích đem lại cho Việt Nam trong thời đại mới. Một tác giả (4) từng viết: "Cha Alexandre de Rhodes đưa Ki-tô giáo và nước Pháp vào Việt Nam." Nhưng có những sự việc thường được xem là hiển nhiên mà thực sự lại sai ...

  • 1 decade ago

    -Chữ Quốc Ngữ, viết tắt là Quốc Ngữ, là hệ thống chữ viết chính thức hiện nay cá»§a tiếng Việt. Hệ thống này được xây dá»±ng dá»±a trên chữ cái Latinh (cụ thể là trá»±c tiếp từ chữ cái Bồ Đào Nha) thêm các chữ ghép và 9 dấu phụ — 4 dấu tạo ra các âm mới, và năm dấu còn lại dành cho thể hiện thanh điệu cá»§a từ. Hai loại dấu phụ có thể được viết cùng trên một chữ cái nguyên âm.

    -Chữ quốc ngữ doAlexandre de Rhodes (sinh năm 1591 tại Avignon, Pháp; mất năm 1660 tại Ispahan, Ba Tư) là người đầu tiên sáng lập.Ông đã sang Việt Nam truyền đạo trong vòng sáu năm (1624 – 1630), là người có công rất lớn trong việc La Mã hoá tiếng Việt (nhiều tác giả gọi là Latin hóa. Thá»±c ra mẫu tá»± chữ cái tiếng Việt hiện nay là mẫu tá»± chữ Roman chứ không phải là chữ Latin). Kế tục công trình cá»§a những người đi trước là các tu sÄ© Jesuit (dòng Tên) người Bồ Đào Nha như Francisco de Pina, Gaspar d’Amaral, Antonio Barbosa v.v... trong việc La Mã hóa tiếng Việt, Alexandre de Rhodes đã xuất bản “Bài giảng giáo lý Tám ngày” đầu tiên bằng tiếng Việt và cuốn từ điển Việt - La - Bồ đầu tiên vào năm 1651 tại Rome. Hệ thống chữ viết tiếng Việt dùng chữ cái La Mã này được chúng ta ngày nay gọi là “chữ Quốc ngữ”.

    Bạn có thể tham khảo thêm ở đây,chúc vui:

    http://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BB%AF_Qu%E1%BB%...

    http://nguoivienxu.vietnamnet.vn/butviet/2004/11/3...

    Source(s): www.vi.wikipedia.org
Still have questions? Get your answers by asking now.